Độ che phủ rừng đề cập đến một thước đo về tỷ lệ diện tích rừng trên tổng diện tích đất.


Đây là một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ thực tế của tài nguyên rừng và diện tích đất được rừng chiếm giữ ở một quốc gia hoặc khu vực. Độ che phủ rừng thường được biểu thị bằng phần trăm.


Tỷ lệ che phủ rừng trên thế giới khác nhau giữa các châu lục: Bắc Mỹ đạt 34%, Nam Mỹ và Châu Âu khoảng 30%, Châu Á là 15%, khu vực Thái Bình Dương là 10% và Châu Phi chỉ đạt 6%.


Nam Mỹ là nơi có 21% diện tích rừng trên thế giới, trong đó 45% là rừng nhiệt đới. Riêng Brazil đã bao gồm 30% diện tích rừng nhiệt đới của toàn cầu. Tuy nhiên, quốc gia này mất đi 3,2 triệu héc-ta rừng mỗi năm. Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Thế giới, chỉ tính riêng năm 2000, Brazil đã sản xuất 103 triệu mét khối gỗ.


Các khu vực nằm trong các vùng khí hậu có lượng mưa nhiều hơn, chẳng hạn như khí hậu rừng mưa nhiệt đới, khí hậu biển nhiệt đới, khí hậu gió mùa nhiệt đới, khí hậu gió mùa biển cận nhiệt đới, v.v., thường có tỷ lệ che phủ rừng cao.


Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là khi tính toán tỷ lệ che phủ rừng, nhà nước không chỉ bao gồm diện tích được che phủ bởi rừng rậm mà còn xem xét cả bụi cây, cây lưới rừng nông nghiệp và diện tích được che phủ bởi cây xung quanh. Tỷ lệ che phủ rừng đóng vai trò là một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ của tài nguyên rừng và nỗ lực trồng rừng.


1. Điều kiện tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến độ che phủ thảm thực vật. Các thành phố có núi, nước và điều kiện khí hậu tốt có thảm thực vật tự nhiên phong phú, thảm thực vật nhân tạo dễ trồng và tỷ lệ che phủ xanh tương đối cao.


Tuy nhiên, ở những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như vùng khô hạn, sa mạc, thảm thực vật tự nhiên thưa thớt, thảm thực vật nhân tạo khó trồng và tỷ lệ che phủ thực vật thấp.


2. Quy mô của thành phố sẽ ảnh hưởng đến độ che phủ thực vật. Nhìn chung, quy mô thành phố càng lớn thì mật độ dân số và phát triển càng cao. Trong khi đó, diện tích không gian xanh càng nhỏ, tỷ lệ che phủ thực vật càng thấp và tỷ lệ che phủ thực vật thường cao hơn ở các thành phố nhỏ.


3. Bản chất, sức mạnh kinh tế, lịch sử phát triển của thành phố, v.v. sẽ ảnh hưởng đến độ che phủ thực vật. Bên cạnh các điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội, quan điểm quy hoạch đô thị cũng là một yếu tố quan trọng.


Nếu thành phố chỉ được coi là một nền kinh tế xã hội, các lợi ích môi trường của thành phố dễ bị bỏ qua. Khi đó, ngay cả khi các điều kiện khác thuận lợi, độ che phủ thực vật vẫn có thể thấp.


Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc báo cáo rằng diện tích rừng trên thế giới đã giảm một nửa theo ghi nhận, chủ yếu do các hoạt động của con người. Theo báo cáo năm 2001 của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, diện tích rừng toàn cầu đã giảm từ 3,96 tỷ héc-ta năm 1990 xuống còn 3,87 tỷ héc-ta vào năm 2000. Gần 10 triệu héc-ta rừng bị mất đi mỗi năm trên khắp thế giới.


Chúng ta cần phải có những biện pháp chủ động để ngăn chặn sự suy giảm độ che phủ rừng và duy trì một trái đất xanh tươi. Bằng cách thúc đẩy các thực hành bền vững như tái trồng rừng, quản lý đất đai có trách nhiệm và nỗ lực bảo tồn, chúng ta có thể bảo vệ những lợi ích vô giá mà rừng mang lại.